Để nhớ về một Đà Lạt của ngày xưa đó…
Những ngày lập đông ở quê nhà, một người bạn đồng hương gởi cho một carte postale chụp cảnh Đà Lạt mù sương trên một vùng đồi núi điệp trùng… Mình cảm ơn bạn, lời cảm ơn tha thiết… Không chỉ vì “Đà Lạt lập đông” của bạn quá đẹp quá thơ… mà còn vì tấm ảnh đã gợi lên trong mình biết bao điều tưởng rằng đã chôn kín… Xin cảm ơn, cảm ơn người bạn cũ. Vì với mình, mặc dù tấm ảnh không có Nhà Thờ Con Gà, không Hotel Palace, không Hồ Xuân Hương với cầu Ông Đạo, không Café Thủy Tạ soi mặt nước hồ… và không và không không rất nhiều thứ của Đà Lạt xưa cũ… Nhưng những dải sương mờ dưới thung lũng với ngôi nhà mồ hắt hiu của những cư dân người Lạch - với chút tình yêu hương xa trong ký ức vẫn còn, cũng gợi lại trong mình rất nhiều những ngày Đà Lạt đầu tiên của một thằng con trai Huế, thằng cù lần tuổi 22, ở cuối thu đầu đông 1973, của những ngày đầu sĩ quan trưởng công trường xây dựng dinh Thủ Tướng trên đường đi Cam Ly… Làm răng quên được những đêm một mình vào phòng trà Duy Tân đường Yersin, lòng xa vắng, những tình khúc Trịnh Công Sơn, nhưng không từ Kh.Ly mà từ là một em thơm tho nào đó của phố núi mịt mùng… Những buổi chiều lành lạnh, loanh quanh khu Hòa Bình, trời lạnh mà rất khô, áo khoác ngoài field jacket, râu ria trẻ trung thiếu vẻ quân phong, một chút phong trần của đời trai “dang dở”, để"chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ nhớ tên em…” và nhớ luôn những bạn bè trang lứa, với chút may mắn hơn, đang bình yên trong những giảng đường ngoài đó, những Phước, những Tiến, những Quyết, những Quyền… và những ai ai nữa đã đi vào bề bộn của cuộc đời tui. Rồi Café Tùng với khói Pall Mall phiền não… Một mình, cuộc đời anh bắt đầu buồn rồi đó MĐ ơi! Rồi bài hát Pleiku được đem về Đà Lạt với tiếng hát thầm của người lính trẻ "đi dăm phút đã về chốn cũ, một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng…” Đó là đêm Noel 73, mình đưa Khánh Chi đi lễ khuya, cô gái Đà Lạt gốc Huế, mình không có đạo nên đứng ngoài sân, nhìn những người đẹp diện áo quần đón Chúa mà lòng nôn nao, các em Đà Lạt quá đặc biệt, má hây hây, hai phần tiếp hậu tròn tròn múp múp rất là thấy ghét, người ta nói mấy em vì lên đồi xuống dốc nhiều quá cho nên mới ra cớ sự như rứa đó. Mỗi bước đi là mỗi bước toàn thân nhún nhảy loay hoay… hè hè! Cho tui nhớ về Khánh Chi, người con gái Huế xa Huế từ thời đệ nhất Cộng Hòa. Chi ngoan đạo, xa Huế đã lâu nhưng vẫn đầy chất Huế cũ, vẫn tóc thề ngang vai, vẫn anh ơi răng rứa… tóm lại vẫn tất cả ngọt ngào của một Huế tình yêu của tui. Nhà Chi ở đầu con đường Nhà Chung, con đường nhỏ đi xuống Trại Bò, shop nhỏ bán bánh kẹo kèm theo vài cái bàn café quen thuộc mà ngày mô thiếu úy Huỳnh cũng đóng đô mỗi tối. Đêm Noel đó trời quá lạnh, nghe nói khoảng 12 độ Celcius. Mình đứng ngoài sân Nhà Thờ, cảm nhận gió lạnh từ phía Hồ Xuân Hương thổi lên từng cơn, cho người run từng chập, nhưng trong lòng mình vẫn ấm, vì sắp cùng “Chúa nhỏ” đi loanh quanh trong đêm Thánh vô cùng này. Nghĩ đến đó mình không còn thấy lạnh nữa, hì hì!…
Thế nhưng cuộc chiến tranh đã kéo những người thanh niên qua nhiều giong ruổi… Gần hai năm sau, chiều tối 29 tháng 3/75, mình đã gặp lại Đà Lạt, trong một tâm thế khác. Một thiếu úy, một tài xế và 4 hạ sĩ quan chất nổ, trên một chiếc ben 5 tấn độc hành ngược đèo Bellevue. Trời như buồn cho vận nước, âm u và tĩnh lặng vô cùng. Suốt một con đèo dài không ai qua lại… Những sinh viên Võ Bị cuối cùng, ngụy trang cây lá, đang di tản bộ xuống đèo về Phan Rang. Có người bạn nào của tui trong đoàn lui binh chiều hôm đó. Bỗng nhớ lại hình ảnh hồi sáng ở hậu cứ đèo Rù Rì - Nha Trang, tất cả sĩ quan Ban chỉ huy tiểu đoàn xếp hàng ngang đứng tiễn mình ngay cổng, các đàn anh đứng nghiêm chào tiễn biệt thằng em thiếu úy trẻ nhất tiểu đoàn, chào tiễn biệt hay là chào vĩnh biệt thì cũng rứa. Thiệt tình mình chẳng nghĩ chi, lính mà, nhiệm vụ được giao thì thi hành thôi. Làm sao biết được thời khắc đó những đàn anh trong tiểu đoàn đang nghĩ gì??? Sau này khi đã vào trại tập trung rồi… mình mới nghĩ lại, chuyến đi ngày đó chẳng khác nào chuyến đi cảm tử… Những thằng lính non nớt đi ngu ngơ trong một chiến trường không còn ai kiểm soát… Giờ thứ hai mươi lăm, những chuyến đi không hẹn ngày trở lại… Nhưng còn ai trồng khoai đất này, mình trẻ nhất, cấp bậc nhỏ nhất, thì cũng xứng lòng để nhận nhiệm vụ ê chề nhất. Ôi công danh và sự nghiệp, có ai muốn chăng con chốt trắng chốt đen trong cuộc cờ tàn. Nhưng dù chi mình cũng thằng con trai thời tao loạn, đâu thể yếu lòng! Chỉ tiếc giờ đó không có ai làm bạn thiết Cao Tiệm Ly đến tiễn Kinh Kha - Huỳnh bơi qua “sông Dịch”…
Xe qua khỏi cổng tiểu đoàn, mình lạnh lùng nhìn qua kính chiếu hậu, còn thấy các đàn anh vẫy tay chào theo, mình đưa tay ra ngoài vẫy lại, với tất cả lòng kính trọng quân kỷ quân giai…
Trở về Đà Lạt mình mang nhiệm vụ bất khả thi, không phải xây dựng mà là hủy diệt: phá hủy lò phản ứng Trung Tâm Nguyên Tử Đà Lạt, và phòng thí nghiệm vật lý Trường Võ Bị trước khi thành phố lọt vào tay “phe địch”. Tại Bộ chỉ huy hành quân tiểu khu, mình thoáng chút lãng mạn, làm sao ra nhìn Đà Lạt một lần cuối, biết đâu sau này sẽ xa “Em” mãi mãi. Một chiếc Honda dame của ai đó ở tiểu khu cho mượn, lòng vòng khu Hòa Bình trong đêm giới nghiêm âm u ngột ngạt, thành phố đã di tản với cửa đóng then cài, các nhà hàng Shanghai, Ngọc Lan đã tự niêm phong, một vài sạp hàng sau chợ vẫn còn bóng người lục đục. Không khí chiến tranh bàng bạc các nơi. Nhưng chiến tranh với tất cả bất ngờ vốn có, đã cuốn mình và các đệ tử theo một dòng chảy khác… Có lệnh mới sáng hôm sau phải theo đoàn convoy xuôi về hướng Di Linh. Mà theo tin rầm rì ở Phòng hành quân tiểu khu thì Bảo Lộc đã bị “tràn ngập” từ trưa 27/3 và có lẽ hôm nay Di Linh chắc đang căng thẳng lắm. Nhiệm vụ cụ thể là bọc hậu cho phe mình “rút lui chiến thuật”, rút đến đâu cắt cầu ngang đến đấy để “phe địch” khó bám theo “phe ta”. Mình về chỗ nghỉ báo cho các đệ tử biết hướng công tác mới. Các đệ tử, mà nhỏ nhất cũng hơn mình 6, 7 tuổi đời, “thiếu úy ơi, làm sao cho tụi em về với vợ con nghe!” Mình xót ruột, làm sao làm sao làm sao, thiếu úy cũng như chiếc lá nhỏ nhoi trôi trong dòng suối lớn, trong cuộc chơi cay đắng này. Cả một đất nước, cả một đoàn quân, còn phiêu bạc nổi trôi, huống chi thân phận nhỏ nhoi của “thầy trò” mình… Ngẫm nghĩ suy tính, mình lại lên BCH tiểu khu xin điều chỉnh phương tiện hành quân, xin kế hoạch tự đi xe ben cơ hữu chứ không theo đoàn công-voa tiếp viện, để làm chi, để dễ bề xoay xở, để còn “có chân” mà chạy ngược chạy xuôi (?!). Dù sao cũng phải nghĩ đến những đàn em trực tiếp, tổ quốc ơi tôi đớn đau để nghe Người réo gọi…
Có lẽ cái thao lược, cái táo bạo của mình là chỗ đó, là quyết định xin ra tiền phương bằng chiếc xe ben cơ hữu. Vì chính nhờ chiếc xe thân yêu đó, phải nói như vậy, mình đưa được anh em về lại hậu cứ đèo Rù Rì nửa khuya 31/3 rạng ngày 1/4. Gần ba trăm cây số, với đèn sương mù, và tốc độ ẩu tả trên những con đường chết. Nha Trang ngày trở về, không phải thẩn thơ một mình trên bãi khuya như trong ca khúc của bác Phạm Duy, mà Nha Trang ngày trở về của tui, của những người lính chuyên viên mìn bẫy, là một thành phố chết, quá khác xa với Nha Trang trước đó 3 ngày, những barriers kẽm gai ngổn ngang trên các đầu cầu Xóm Bóng, cầu Hà Ra. Những ngọn đèn đường tắt ngúm mịt mờ, phố xá lặng lờ như đầy ma quái… Khi xe về ngay cổng tiểu đoàn, mình bảo Lưu tài xế cho lên đèn pha, cả tiểu đoàn chưa ai ngủ, người người nhốn nháo.
-Xe ai. Xe ai???
-Xe thằng Lưu, thiếu úy Huỳnh về rồi!
Mình nghe giọng Sài Gòn của đại úy Bửu Đệ Nhị:
-Ai, thằng Huỳnh về há? Thằng Huỳnh về rồi à???…
Từ khu gia binh, mấy người vợ lính túa ra, ôm chồng mình… rồi quay qua ôm thiếu úy, “Thiếu úy ơi, tưởng thiếu úy dẫn mấy ổng đi luôn rồi chớ!!!” Mình không cầm được nước mắt, cũng rưng rưng với những thân phận nhỏ nhoi và tội nghiệp khốn cùng đó…
Khi mình về đến phòng sĩ quan độc thân, hai thiếu úy 3/72 bạn là Nguyễn Thái Hòa và Huỳnh Hiếu Thuận (dân Kiến Trúc SG) hỏi công việc, mình chỉ nói ngày mai tui dzọt Sài Gòn, ai đi thì theo tui. Hai ông bạn ngạc nhiên, mình trả lời tỉnh rót, mình thua rồi, thua nhanh lắm đó! Hai ông bạn thắc mắc, “bộ mày không chờ lệnh thiếu tá à?” “Chờ à, thiếu tá cũng đang binh đường của thiếu tá!”. Đêm nằm suy nghĩ, sáng mai sẽ cho Lưu đánh xe ra công trường cầu Hòn Khói bốc hai phuy dầu còn ngoài đó và sẽ đi vòng qua ngã By-pass để vào thẳng Cam Ranh… Thế nhưng năm giờ sáng lệnh thiếu tá nhanh hơn, kêu mình lên gặp, mình theo tài xế của “sếp” đến phòng gia binh tiểu đoàn trưởng.
-Sao hồi đêm về không lên gặp anh?
-Dạ, em thấy khuya quá sợ phiền thiếu tá nên định sáng nay lên báo cáo sớm!
Khuôn mặt thiếu tá hình như giãn ra:
-Sao? Công việc trển sao rồi?
-Dạ chiều qua tụi em làm cây cầu ĐN xong rồi… Chắc không yên đâu thiếu tá…
-Rồi lệnh đâu mà trở về?
Ý ông hỏi có lệnh về không hay là chém vè,… mình đành phải bộc bạch:
-Dạ trưa hôm qua, đại tá Ng Hợp Đoàn hạ trực thăng trên đồi Đại Ninh, làm việc bên Tiểu đoàn ĐPQ bảo vệ cầu xong kêu em vào hỏi công việc cầu Đại Ninh và cho lệnh khẩn cấp đưa lính về hướng Di Linh… Em thấy mấy ông có vẻ bối rối nên em đơn phương quyết định để tự cứu lính mình…
Thiếu tá nghe xong trầm ngâm, im lặng khá lâu:
-Thôi, em về phòng nghỉ đi, chờ lệnh tiểu đoàn đừng đi đâu ra ngoài nữa!
Mình trở về chambre, gần đến phòng độc thân, Huỳnh Hiếu Thuận le te chạy ra báo tin:
-Nè Huỳnh ơi, BBC mới đưa tin quân đội Nam Việt Nam vừa phá hủy một cây cầu lớn trên đường 20 rồi mậy…
Mình không trả lời Thuận, im lặng về giường nằm, đoạn đường sắp tới sẽ thế nào, cả một quốc gia đang bơi, và mình cũng đành ngụp lặn cùng vận nước… Những bạn bè trang lứa ơi, những người bạn hiền của tui ơi. Ai đó trong bạn bè, vẫn thường trách cứ, răng mi cứ nhắc hoài chuyện quá khứ, vui mà sống với tương lai chớ! Mình xin lỗi bạn bè, làm răng mà quên được. Đó, gần bốn mươi năm trôi qua rồi còn chi, nhưng đoạn phim xưa vẫn còn rành rọt quá, có cảm thông không, cả một đoạn đời trai trẻ của mình nằm nơi đó. Cả trước và sau là bảy năm cho cuộc chiến tranh, một chặng đời không ít. Nhưng dù sao cũng xin cảm ơn những ngày chiến tranh tàn khốc đó, đã cho mình xuôi ngược trên những nẻo đường quê hương, để yêu hơn mảnh đất gian khó này. Để nhớ lâu, những “cánh rừng” bông dã quỳ vàng rực mỗi mùa Xuân về trên vùng đồi núi Blao, trên những con đường đồi dọc quốc lộ 20 dẫn về Đà Lạt. Hay những trưa nắng mù đôi mắt, xe băng băng trên quốc lộ 1 qua vùng đất Tháp Chàm Phan Rang, hay vùng khô hạn Lương Sơn Chợ Lầu Phan Rí Cửa…
Cảm ơn và cảm ơn, trong cuộc thua này tui đi tìm chiến thắng khác… Chiến thắng cái yếu đuối nhỏ nhen của bản thân mình… Đúng thôi, những cái mất thì rõ ràng rồi đó, nhưng những cái được thì dễ chi nhìn thấy!!!
Một ngày cuối tuần nhớ chuyện cũ - SG 09/2012
THÁI HUỲNH